Ông Ngô Đăng Khoa, Giám đốc Khối ngoại hối và thị trường vốn, HSBC Việt Nam vừa có bài nhận định về kinh tế Việt Nam cùng các dự báo.
Kinh tế vĩ mô Việt Nam nhiều tín hiệu tích cực bất chấp tình hình Covid-19 căng thẳng hơn
Theo ông Ngô Đăng Khoa, kinh tế thế giới nói chung đã và đang cho thấy dấu hiệu phục hồi từ mức tăng trưởng rất thấp của năm 2020, với tốc độ hồi phục thậm chí nhanh hơn kì vọng, đặc biệt ở một số quốc gia và vùng khu vực như Mỹ và Châu Âu – nơi mà mà lộ trình tiêm vắc-xin đã góp phần đẩy nhanh tiến trình này. Đã xuất hiện sự lạc quan về đà phục hồi kinh tế ở nhiều nước, nhưng vẫn còn đó nhiều rủi ro đối với triển vọng cả tăng trưởng và lạm phát. Cho tới khi vắc xin trở nên phổ biến hơn trên toàn thế giới và nguy cơ biến thể mới giảm dần, Covid-19 vẫn là rủi ro lớn nhất và một số quốc gia sẽ vẫn phải đối mặt với những hạn chế về khả năng di chuyển trong nước và gián đoạn hoạt động. Ngoài ra, một yếu tố chính đã giúp vực dậy tăng trưởng kinh tế là các gói hỗ trợ cả về chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ. Tuy nhiên, song song với đà hồi phục mạnh mẽ của GDP là nỗi lo lạm phát trở lại, với nhiều ý kiến cho rằng lạm phát sẽ tăng nóng trong lâu dài thay vì chỉ mang tính chất tạm thời.
Vì lí do đó, ngân hàng trung ương (NHTW) nhiều quốc gia đã không còn áp dụng chính sách tiền tệ nới lỏng thông qua hoạt động bơm thanh khoản vào thị trường, thậm chí ngược lại đã có một số NHTW nâng lãi suất hoặc bắt đầu nhắc tới lộ trình nâng lãi suất và hút thanh khoản trở lại trong tương lai gần. Đối với thị trường tài chính quốc tế, các tín hiệu và hành động của NHTW Mỹ (Fed) luôn có tầm ảnh hưởng rất lớn. Cụ thể, với việc Fed ra tín hiệu tương đối “diều hâu” trong cuộc họp tháng 6 vừa qua với lộ trình nâng lãi suất hai lần vào năm 2023 và khả năng giảm mua lại tài sản, thị trường tài chính đã trải qua nhiều phiên biến động mạnh.
Hiện tại một làn sóng Covid-19 mới đang tiếp tục càn quét các quốc gia trong khu vực Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam. Kể từ cuối tháng 4, Việt Nam đang phải đối mặt với đợt dịch bùng phát tồi tệ nhất kể từ khi đại dịch bắt đầu. Số ca nhiễm tăng nhanh, đặc biệt ở các khu công nghiệp, gây nhiều trở ngại đến hoạt động sản xuất. Nếu như tính đến tháng 4/2021, Việt Nam chỉ ghi nhận khoảng 3.000 ca nhiễm thì tới nay con số này đã vượt 15.000. Dịch Covid-19 bùng phát tại nhiều địa phương trên cả nước với những diễn biến phức tạp, khó lường đã đặt ra nhiều thách thức, rủi ro cho trong việc thực hiện mục tiêu kép “vừa phòng chống dịch bệnh, vừa phát triển kinh tế”.
Bất chấp việc số ca nhiễm tăng nhanh, số liệu kinh tế vĩ mô 6 tháng đầu năm 2021 vẫn cho thấy những tín hiệu đáng khích lệ. Theo Tổng cục thống kê, GDP 6 tháng đầu năm 2021 tăng 5,64%, cao hơn tốc độ tăng 1,82% của 6 tháng đầu năm 2020 mặc dù còn thấp hơn cùng kỳ năm 2018 và 2019. GDP quý II/2021 ước tính tăng 6,61% so với cùng kỳ năm trước, cao hơn tốc độ tăng 0,39% của quý II/2020. Trong khu vực công nghiệp và xây dựng, ngành công nghiệp 6 tháng đầu năm 2021 tăng 8,91% so với cùng kỳ năm trước, thấp hơn tốc độ tăng 9,13% của 6 tháng đầu năm 2019 nhưng cao hơn tốc độ tăng 2,91% của 6 tháng đầu năm 2020. Về lĩnh vực xuất nhập khẩu, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa 6 tháng đầu năm 2021 ước tính tăng 28,4% so với cùng kỳ năm trước với các nhóm hàng nông, lâm thủy sản cho thấy dấu hiệu hồi phục nhờ vào các quốc gia phương Tây gia tăng nhu cầu tiêu dùng.
Mặt khác, lạm phát duy trì ở mức tương đối ổn định. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 6/2021 tăng 0,19% so với tháng trước, tăng 1,62% so với tháng 12/2020 và tăng 2,41% so với cùng kỳ năm 2020. Giá nguyên nhiên vật liệu đầu vào tăng theo giá thế giới; giá điện, nước sinh hoạt tăng theo nhu cầu tiêu dùng là những nguyên nhân chính làm tăng chỉ số giá tiêu dùng. Các yếu tố này hoàn toàn nằm trong kỳ vọng. Ở khía cạnh tích cực, đà tăng giá thực phẩm vẫn đi ngang, một phần nhờ giá thịt lợn đang được bình thường hóa trở lại. Ngoài ra, tác động gần đây của Covid-19 đã phản ánh trong chỉ số giá tiêu dùng tháng 6. Nhóm hàng hóa giải trí du lịch giảm 0,1% so với tháng trước và giảm 0,7% so với cùng kỳ năm trước, phản ánh nhu cầu du lịch địa phương giảm. Nhìn chung, theo quan điểm của chúng tôi, lạm phát sẽ được kiềm chế tốt trong năm nay. Khối Nghiên cứu HSBC dự báo lạm phát trung bình vào khoảng 2,8% trong năm 2021, thấp hơn nhiều so với mức chỉ tiêu tối đa 4% mà Quốc Hội đề ra.
Thách thức cho tăng trưởng vẫn còn nhiều, năm 2021 có thể chỉ tăng trưởng 6,1% nhưng sẽ tăng lên 6,8% vào năm 2022
Cũng theo ông Ngô Đăng Khoa, bất chấp khả năng kinh tế hồi phục mạnh mẽ tại các quốc gia phương Tây, thách thức cho tăng trưởng của Việt Nam nằm nhiều hơn ở các yếu tố nội tại. Mặc dù các dữ liệu vĩ mô chính của 6 tháng đầu năm vẫn cho thấy xu hướng tương đối ổn định, nhưng làn sóng dịch bệnh hiện tại có thể gây ra những áp lực đáng kể đối với mục tiêu tăng trưởng GDP 6,5% đã đề ra trong năm nay. Các ổ dịch gần đây làm dấy lên lo ngại về việc gián đoạn sản xuất trong thời gian dài sẽ ảnh hưởng đến sự phục hồi kinh tế bền vững của Việt Nam. Các chỉ thị giãn cách để ngăn ngừa dịch bệnh đã dẫn đến sự suy giảm nặng thêm về triển vọng tiêu dùng và sự phục hồi của ngành dịch vụ, du lịch. Đặc biệt, biến thể mới của Covid-19 và tốc độ tiêm vắc-xin chậm sẽ tiếp tục gây trì hoãn việc mở cửa trở lại biên giới cho khách du lịch đại chúng và các nhà đầu tư nước ngoài.
Do đó, Khối Nghiên cứu HSBC hạ dự báo tăng trưởng năm 2021 xuống 6,1% (từ 6,6%). Tuy nhiên, trong dài hạn, động lực tăng trưởng của Việt Nam vẫn rất mạnh mẽ. Khi dịch bệnh được kiểm soát, Việt Nam sẽ được hưởng lợi từ sự phục hồi mạnh mẽ do công nghệ dẫn đầu và triển vọng FDI đầy hứa hẹn, khiến Việt Nam trở thành một trong những quốc gia giàu tiềm năng nhất trong khu vực. Do đó, HSBC dự báo tăng trưởng năm 2022 hiện tại được nâng lên 6,8% (từ 6,5%).
Để phục hồi bền vững trở lại đúng hướng, điều quan trọng là phải nhanh chóng ngăn chặn đà lây lan của virus và đẩy nhanh chương trình tiêm chủng toàn quốc. Với việc phải đóng cửa nhiều khu công nghiệp và giãn cách xã hội kéo dài, chắc chắn đà tăng trưởng trong quý 3 nói riêng và nửa sau của năm 2021 đặt ra rất nhiều thách thức. Do đó, theo chuyên gia của HSBC, cần có những chính sách kịp thời cả về tài khóa và tiền tệ nhằm hỗ trợ hơn nữa cho doanh nghiệp và người dân vượt qua những khó khăn này.
VNĐ nhiều dư địa tăng giá trong ngắn hạn, nhưng có thể mất giá trở lại vào cuối năm
Tiếp nối xu hướng biến động mạnh của năm 2020, trải qua 6 tháng đầu năm nay đồng USD vẫn cho thấy nhiều biến động mạnh. Chỉ số USD index sau khi đạt đỉnh của năm vào cuối quý 1 đang tìm lại sức mạnh của mình khi bật tăng trở lại vào nửa cuối tháng 6, ngay sau phiên họp thường kỳ của Fed. Với việc đồng bạc xanh tăng mạnh trở lại, các đồng tiền trong khu vực châu Á chịu áp lực suy yếu tương ứng, và đồng Việt Nam cũng không phải ngoại lệ.
Mặc dù trong hầu hết thời gian 6 tháng đầu năm 2021, tỷ giá USDVNĐ đa phần giao dịch trong biên độ 23.010-23.100 với xu hướng thiên về tiền Đồng tăng giá, nhưng dường như tình hình có xu hướng đảo ngược sau kì họp gần nhất của Fed. Cụ thể, NHNN đã tiếp tục mua vào lượng lớn ngoại tệ qua nghiệp vụ kỳ hạn, trước khi quyết định hạ giá mua 150 đồng xuống 22.975 vào tuần đầu tháng 6, cho thấy dư địa để VNĐ có thể tăng giá thêm trong ngắn hạn.
Tuy nhiên, nhìn về trung và dài hạn, đặc biệt từ nay đến cuối năm, ông Ngô Đăng Khoa vẫn không bỏ ngỏ khả năng VNĐ chịu áp lực mất giá trở lại với mức dự báo 23.100 vào cuối năm nay. Một trong những nguyên nhân có thể kể đến như cán cân thương mại chuyển sang nhập siêu, mối lo về giá cả hàng hóa cao hơn cùng khả năng lãi suất Mỹ bước vào chu kỳ tăng trở lại.
Nhìn chung, theo ông Ngô Đăng Khoa, có một điều khá chắc chắn rằng tỷ giá USD/VNĐ sẽ khó duy trì được xu hướng bình ổn như đã từng trải qua trong 6 tháng cùng kỳ 2020, thay vào đó sẽ có nhiều biến động hơn trong 6 tháng cuối năm, đến từ biến động trên thị trường quốc tế, đặc biệt là các động thái của Fed trong những tháng tiếp theo, cũng như những rủi ro nội tại mà Covid-19 tạo ra.
Có khả năng lãi suất điều hành sẽ tăng
Về xu hướng lãi suất, theo ông Ngô Đăng Khoa, tình trạng vật giá leo thang đang khiến thị trường tài chính bắt đầu tỏ ra quan ngại khi NHTW các nước bắt đầu phải tính đến chuyện siết van thanh khoản và nâng lãi suất điều hành. Tuy nhiên, mối lo ngại này dường như tập trung nhiều hơn ở các quốc gia phương Tây, trong khi đó ở các quốc gia châu Á, bao gồm Việt Nam, chưa cho thấy áp lực của lạm phát khi áp lực chủ yếu đến từ giá cả đầu vào thay vì cầu kéo. Nhưng nếu đặt trong bối cảnh lạm phát tiếp tục duy trì ở mức cao trong thời gian dài thay vì mang tính thời điểm, thì khả năng nâng lãi suất điều hành là có thể xảy ra. Ở mặt khác, cơ quan điều hành cũng cần cân nhắc để tránh việc nâng lãi suất quá sớm và/hoặc quá nhanh trong bối cảnh kinh tế vẫn còn chịu nhiều ảnh hưởng nặng nề từ dịch bệnh.
Do đó, chuyên gia của HSBC khuyến nghị, các doanh nghiệp cần tiếp tục chủ động trong các nghiệp vụ phòng vệ rủi ro, bao gồm rủi ro tỷ giá, rủi ro lãi suất, thông qua các sản phẩm mà NHNN cấp phép, nhằm đạt mục đích quản trị rủi ro trong kinh doanh.
T. Lâm
Source link